meohenomyeu629

Tháng Năm 30, 2011

đánh giá tổng quan phát triển Việt Nam thời gian vừa qua

ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ  VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 2001 – 2010

2.3 Nhìn lại mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 dưới lăng kính yêu cầu phát triển bền vững

2.3.1 Quy mô tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010

(1) Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao và ổn định trong nhiều năm

Nếu không kể 3 năm cuối do ảnh hưởng đáng kể của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhìn chung, chúng ta đã duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh (từ 7% trở lên). Việt Nam đã nằm trong danh sách các nước châu Á tăng trưởng nhanh nhất. Tăng trưởng nhanh được thể hiện ở các khu vực và ở các ngành của nền kinh tế.

–   Xét theo khu vực kinh tế, tăng trưởng nhanh nhất là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và tiếp sau là khu vực tính tế tư nhân.

–   Xét theo các ngành kinh tế, trong xu hướng tăng trưởng nhanh thì ngành CN luôn đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn cả, và tiếp đó là ngành dịch vụ

Với kết quả tăng trưởng nhanh trong nhiều năm liền: (i)  đời sống kinh tế của đất nước đã thực sự được khởi sắc; (ii) đời sống của người dân cũng theo đó được cải thiện khá nhanh và  Liên Hiệp Quốc đã công nhận Việt Nam đã hoàn thành các chỉ tiêu về xóa đói giảm nghèo trong chương trình thiên niên kỷ do tổ chức này đạt ra.

Tuy vậy trong bức tranh tổng thể khá tích cực về tăng trưởng kinh tế gợn lên một số vấn đề  đáng lo ngại, đó là xu hướng tăng trưởng nhanh đang có biểu hiện giảm sút và nhìn chung thu nhập bình quân của Việt Nam vẫn nằm ở mức thấp nhất trong khu vực

– Tăng trưởng kinh tế qua hai thập kỷ diễn biến mang tính chu kỳ 10 năm khá rõ, trong mỗi chu kỳ, tăng trưởng đạt tốc độ cao dần vào giai đoạn đầu sau đó thấp đi ở giai đoạn sau.

–  Sự suy giảm tăng trưởng diễn ra ở tất cả các ngành kinh tế, trong đó điều đáng nói là sự giảm sút tốc độ tăng trưởng của hai nhóm ngành CN và Dịch vụ.

(3) GDP bình quân đầu người vẫn ở mức thấp nhất trong khu vực

Tính thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD (theo tỷ giá hối đoái bình quân) năm 2010 của Việt Nam đạt khoảng 1170 USD. Tuy vậy, hiện tại còn thấp xa so với các con số tương ứng của nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á (Singapore 37.597,3 USD, Thái Lan 4.042,8 USD, Philippines 1.847,4 USD). GDP bình quân đầu người của Việt Nam mới bằng 42,8%, con số tương ứng của khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 7/11 nước; bằng 26% con số tương ứng của châu Á và đứng thứ 36/50 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh; bằng 11,7% con số tương ứng của thế giới và đứng thứ 138/182 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh.

2.3.2 Đánh giá mô hình tăng trưởng theo các yếu tố đầu vào

Mô hình tăng trưởng xét theo góc độ đầu vào nhằm giúp làm rõ nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, bao gồm việc huy động các yếu tố của sản xuất là K (vốn), L (lao động) và năng suất (TFP).

– Đóng góp vào tăng trưởng GDP của Việt Nam thời gian qua chủ yếu là yếu tố nguồn lực vật chất là K và L và sự đóng góp của yếu tố này  có xu hướng tăng lên.Trong thời kỳ 1990-2000, 56% tăng trưởng GDP của Việt Nam là do đóng góp của yếu tố vật chất Tuy nhiên, trong thời kỳ 2000-2010, đóng góp của các yếu tố vật chất đã tăng lên tới 73%. Điều này phản ánh thực chất quá trình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã thiên theo hướng mở rộng theo chiều rộng. Việc mở rộng quy mô nền kinh tế (tăng trưởng theo chiều rộng) đối với cac nước đang phát triển như Việt Nam là hợp lý, trong điều kiện chúng ta đang còn nhiều tiềm năng phát triển chưa được khai thác và sử dụng. Tuy vậy, theo thời gian nó phải được giảm đi về tỷ trọng và thay thế dần bằng các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu mới là đúng xu thế và quy luật. Xu thế tăng trưởng quá thiên về vốn vật chất (với tỷ lệ  góp ngày càng tăng của K và L) là sự bất hợp lý trong mô hình tăng trưởng ở nước ta hiện nay.

– Đóng góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng chiếm tỷ lệ thấp và lại có xu hướng giảm sút nhanh trong giai đoạn 2001- 2010. Thời kỳ 1990 – 2000 44% tăng trưởng GDP là do yếu tố  TFP;  đến giai đoạn 2001-2010  phần đóng góp của TFP giảm xuống chỉ còn 26%, có năm đóng góp của yếu tố này còn có giá trị âm. Nhìn chung đóng góp của TFP vào tăng trưởng của Việt Nam thấp xa so với con số 35 – 40% của một số nước trong khu vực. Có thể khẳng định rằng, vai trò hạn chế của yếu tố TFP đối với tăng trưởng là một rào cản lớn cho việc nâng cao hiệu quả tăng trưởng kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu năng suất lao động, hiệu quả đầu tư, và nhất là đến khả năng duy trì bức tranh tăng trưởng kinh tế trong dài hạn cũng như khả năng khai thác triệt để các tiềm năng của đất nước.

– Trong các yếu tố vật chất thì đóng góp chính lại là yếu tố vốn vật chất chứ không phải là lao động. Thời kỳ 1990-2000, yếu tố vốn vật chất đóng góp 34% vào tốc độ tăng trưởng, sang đến giai đoạn 2001-2010 đã lên tới xấp xỉ 60%. Trong khi đó đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng có xu hướng giảm sút, từ 22% (giai đoạn trước) xuống còn 19% giai đoạn sau.

Kết luận: nếu theo góc độ các yếu tố đầu vào, những dấu hiệu trên đã phản ánh  tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua được thực hiện theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng với việc chú trọng chủ yếu đến yếu tố vốn vật chất

Mô hình này phản ánh một số bất cập sau đây:

(1) Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã quá dựa vào K (vốn), tức là tăng trưởng theo kiểu “quảng canh” ngày càng rõ nét. Các nước đang phát triển, khi tiềm năng còn chưa khai thác nhiều thường có xu hướng tăng trưởng theo chiều rộng. Tuy vậy, theo xu hướng phát triển, việc mở rộng nền kinh tế theo chiều rộng cần phải được giảm đi và thay vào đó là cần phải chú trọng nhiều hơn đến yếu tố năng suất, hiệu quả như các yếu tố khoa học công nghệ, quản lý và chất lượng nguồn nhân lực, nhất là phải chú trọng đến năng suất của lao động sống

Đối với Việt Nam, điều này còn bất hợp lý hơn khi chúng ta là một nước không có năng lực về vốn, kể cả vốn tài chính lẫn vốn vật chất. Vấn đề tăng trưởng của Việt Nam đã phụ thuộc quá nhiều vào vốn vật chất đã  hàm ý nói rằng năng suất biên của vốn ở Việt Nam là thấp và đặt ra câu hỏi về sự bền vững của cách thức tăng trưởng hiện nay.

(2) Đóng góp của yếu tố lao động đã nhỏ nhưng lại có xu hướng giảm là một bất hợp lý đối với một nước có nhiều tiềm về lao động. ở phần lớn các nước trong khu vực có quy mô dân số tương đồng với Việt Nam, tỷ lệ đóng góp của yếu tố này khoảng từ trên 20% đến 30%, thậm chí 40%, trong khi đó ở Việt Nam lao động đóng góp dưới 20% vào tăng trưởng kinh tế. Yếu tố lao động đóng góp ít và có xu hướng giảm ở Việt Nam phản ánh những bất cập sau đây:

Một là, chưa tận dụng hết lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế. Tốc độ tăng trưởng việc làm bình quân năm năm thấp hơn tốc độ tăng trưởng lao động. Bất cập trong gia tăng vốn vật chất làm trầm trọng hơn mức độ gia tăng chậm của việc làm.hơn 37% tổng đầu tư xã hội tập trung vào khu vực nhà nước thâm dụng vốn trong khi khu vực này chỉ tạo 34% GDP và tạo ra 10% số việc làm. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân tạo ra nhiều việc làm nhất (hơn 87% tổng số việc làm) lại chỉ chiếm  28% tổng đầu tư xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp thành thị và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khu vực nông thôn vẫn không được cải thiện.

Hai là, chất lượng lao động thấp hiện là thắt nút cổ chai lớn nhất.

– Tỷ lệ lao động qua đào tạo có tăng lên qua các năm nhưng còn thấp xa so với các nước, thậm chí thấp hơn so với mục tiêu đề ra

– Cơ cấu lao động qua đào tạo mất cân đối, mang tính vừa thiếu thầy, vừa thiếu thợ, “thiếu thợ còn hơn thiếu thầy”. công tác đào tạo nghề chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Hệ thống quản lý đào tạo nghề manh mún và phân tán, dưới sự quản lý của nhiều cơ quan quản lý khác nhau (Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ GD & ĐT, các cơ quan quản lý chuyên ngành). Trang thiết bị đào tạo nghề và cán bộ giảng dạy không nhận được thu nhập thích đáng; và tâm lý xã hội vẫn còn coi nhẹ đào tạo nghề và những người tốt nghiệp các trường nghề.

– Trình độ đào tạo có nhiều khiếm khuyết. Đào tạo thợ thì lý thuyết nhiều hơn tay nghề, các doanh nghiệp khi sử dụng thường phải đào tạo lại.

–  Tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng. Giữa các cơ sở giáo dục đào tạo với các doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động nói chung chưa có sự gắn kết, do đó sinh viên tốt nghiệp thường không đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

Ba là: năng suất lao động rất  thấp.

(i) NSLĐ của Việt Nam đã tăng liên tục kể từ năm 1986 tới nay, với tốc độ tăng tương đối cao so với các nước so sánh. Trong thời kỳ 1986 – 2010, NSLĐ của Việt Nam tăng trung bình 4,67% – cao hơn so với các nước trong khu vực ASEAN nhưng vẫn thấp hơn khá nhiều so với tốc độ của Trung Quốc (7,26%).

(ii) Về mặt tuyệt đối, Việt Nam vẫn là quốc gia có NSLĐ thấp trong khu vực Đông Nam Á. Ví dụ năm 2009, 2010, NSLĐ của Việt Nam chỉ tương đương 52,6% của Trung Quốc,  Nếu so sánh năng suất lao động trong khu vực chế biến chế tạo, khu vực vốn được coi là động lực dẫn dắt tăng trưởng năng suất của Việt Nam, thì kết quả của Việt Nam còn khiêm tốn hơn nữa. Nếu lấy mốc năng suất của Hoa Kỳ là 100 thì năng suất của khu vực công nghiệp chế biến  của Việt Nam tương ứng là 2,4; của Ấn Độ là 4,3; của Inđônêxia là 5,2; của Trung Quốc là 6,9

(iii) Năng suất tăng chủ yếu là do chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên tăng năng suất nội bộ ngành còn chậm

Trong giai đoạn 1996 – 2010, tốc độ tăng NSLĐ chỉ đạt trung bình 4,8% hàng năm từ một mức năng suất xuất phát điểm thấp. chuyển dịch cơ cấu ngành đóng góp tới hai phần ba tăng trưởng năng suất tổng thể trong giai đoạn 2000 – 2010, trong khi tăng trưởng năng suất nội bộ ngành chỉ đóng góp khoảng một phần ba. Điều đáng nói là sự chuyển dịch này phần lớn nhờ vào tác động của di chuyển lao động từ ngành có NSLĐ thấp sang ngành có NSLĐ cao hơn (chuyển dịch cơ cấu tĩnh). Trong khi đó số ngành có tốc độ tăng NSLĐ nhanh mà đồng thời tăng được tỷ trọng lao động vẫn còn ít hoặc nếu có thì tác động của chuyển dịch cơ cấu loại này (chuyển dịch cơ cấu động) đối với tăng năng suất chung là rất yếu. Kết quả này phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu trong hơn hai thập kỷ vừa qua chủ yếu theo chiều rộng, tức là sự thu hẹp của ngành nông nghiệp đi liền với mở rộng của ngành công nghiệp và dịch vụ xét cả về tỷ trọng đóng góp vào GDP lẫn tỷ trọng lao động.

Tốc độ tăng NSLĐ trong nội bộ các ngành còn chậm cũng làm nảy sinh những lo ngại. Hình trên cho thấy: khu vực nông lâm nghiệp có tốc độ tăng trưởng NSLĐ cao nhất, trong khi trọng tâm đầu tư của nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tập trung nhiều vào khu vực chế biến, chế tạo mới mức NSLĐ thấp hơn. Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến là nơi tạo được nhiều việc làm, đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu ngành. Tuy nhiên, chủ yếu là do ngành này mở rộng quy mô sản xuất và hấp thụ lao động có trình độ thấp, chứ chưa đồng thời tăng quy mô và tăng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng cao.

(3) Đóng góp của yếu tố TFP ngày càng thấp

Điều này đã phản ánh tính chất lạc hậu về công nghệ kỹ thuật và hiệu quả của tăng trưởng ngày càng thấp.

Một, hàm lượng công nghệ trong giá trị sản phẩm thấp.

So sánh với các nước khác trong khu vực, các sản phẩm chế biến nói chung và đặc biệt là chế biến cho xuất khẩu của Việt Nam không phức tạp về mặt công nghệ. Tỷ trọng của các sản phẩm công nghệ vừa và cao trong tổng giá trị gia tăng của các mặt hàng chế biến xuất khẩu chỉ ở mức trên 20% và không thay đổi qua những năm gần đây. Các lĩnh vực công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động, chủ yếu là các nhóm mặt hàng may mặc thời trang, chiếm tới hơn 70% giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam.

Hai, Trình độ công nghệ các ngành kinh tế thấp

Trình độ công nghệ của nền kinh tế nói chung, kể cả của ngành công nghiệp nói riêng cũng còn rất thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao của Việt Nam mới đạt khoảng 20,6%, thấp xa so với con số tương ứng 29,1% ,73% của Singapore. Các dự án đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD/1 dự án). Lĩnh vực đầu tư chủ yếu là các ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động như dệt, may, các ngành có công nghệ cao còn rất ít. Trình độ công nghệ thấp chính là lý do hạn chế hiệu quả tăng trưởng kinh tế, hạn chế tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng, làm cho chúng ta luôn chịu thua thiệt trong quan hệ thương mại quốc tế, và cũng ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng trong dài hạn khi các dấu hiệu lợi thế về lao động rẻ ở nước ta đang mất dần và năng lực cạnh tranh tăng trưởng bị giảm đi một cácch tương đối.

Ba, hoạt động chuyển giao công nghệ kém hiệu lực.

Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua cũng chú ý tới việc chuyển giao công nghệ qua thu hút FDI. tuy nhiên quy mô và hiệu quả không cao. Trình độ lao động thấp, năng lực công nghệ yếu kém của doanh nghiệp trong nước, và sự thiếu liên kết (cả xuôi và ngược) giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước được xem là những rào cản cho quá trình chuyển giao công nghệ thông qua FDI ở Việt Nam. các doanh nghiệp chỉ thực hiện những khâu đơn giản nhất trong dây chuyền sản xuất tại Việt Nam, còn việc thiết kế, xác định dung lượng và các khâu tinh vi khác đều được quyết định bởi công ty mẹ ở nước ngoài. Đây là mô hình gia công giản đơn điển hình, dựa vào nguồn lao động rẻ, tiêu tốn năng lượng, đòi hỏi giao thông và hạ tầng logistic tốt và cạnh tranh dựa trên giá. Với mô hình này thì sẽ rất khó có thể tạo ra tác động tràn tích cực từ khu vực FDI

Bốn, công tác  nghiên cứu và triển khai trong nước (R&D)  hạn chế.

Mặc dù số lượng các tổ chức khoa học công nghệ tăng lên đáng kể, nhưng chất lượng hoạt động và năng lực sáng tạo công nghệ của các tổ chức này còn thấp và số tổ chức KHCN trong các trường đại học và khu vực ngoài nhà nước còn rất thấp. Đầu tư hàng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ chỉ chiếm 2% tổng chi ngân sách nhà nước,  kết quả nghiên cứu khoa học được ứng dụng vào thực tiễn chỉ rất ít do lỗi thời hoặc không còn phù hợp.

3.2.3  Đánh giá mô hình tăng trưởng theo góc độ ngành:

Mô hình tăng trưởng theo góc độ ngành được xem xét cụ thể trên  các khía cạnh về đóng góp của các ngành vào tăng trưởng và tính chất hoạt động của các ngành kinh tế tác động đến tăng trưởng.

3.2.3.1. Đóng góp vào tăng trưởng theo ngành

–  Ngành CN luôn đóng góp vào tăng trưởng nhiều nhất. Trừ 2 năm chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngành CN luôn đạt tốc độ tăng trưởng hai con số và đóng góp vào tăng trưởng toàn nền kinh tế xấp xỉ 50%.

– Đóng góp vào tăng trưởng của ngành thương mại dịch vụ đang có xu hướng tăng lên. So với thời điểm xuất phát (2001) thì tăng trưởng ngành thương mại – dịch vụ, tốc độ tăng trưởng thương mại – dịch vụ có xu hướng tăng, từ chỗ thấp hơn tốc độ tăng trưởng  bình  quân (giai đoạn 2001-2005), đến duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hơn ở giai đoạn sau, kể cả thời điểm suy giảm tăng trưởng. Kết qủa là đóng góp của ngành thương mại – dịch vụ vào tăng trưởng có xu hưởng tích cực hơco. Nếu không kể 2 năm do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành CN bị suy giảm tăng trưởng nặng thì ngành thương mại – dịch vụ cũng đã đóng góp khoảng 40% vào tăng trưởng kinh tế chung.

Tuy vậy, nếu xem xét tổng thể, thì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua vẫn được chi phối bởi các ngành sản xuất (NN và CN) là chủ yếu (2/3), tỷ trọng đóng góp của ngành thương mại dịch vụ được đánh giá là thấp, thời kỳ 2001-2005, là 37,7% và giai 2006-2010 là 40%.  Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực, ví dụ như: Singapore là 65%, Hàn Quốc 62%, Thái Lan 50%, Philippine 53,5% (Số liệu của Bộ KH& ĐT).

(i)  Lao động trong nền kinh tế có xu hướng chuyển dịch khá tốt, bình quân năm trong giai đoạn từ 2000 đến 2010, tỷ trọng lao động NN đã giảm đi khoảng 1,5 điểm phần trăm Mặc dù tỷ trọng lao động NN giảm đi nhanh nhưng số lao động NN còn nhiều

(2) Trong khi cơ cấu lao động chuyển dịch nhanh thì chuyển dịch cơ cấu ngành  theo GDP là lại rất chậm. Bình quân năm giai đoạn 2000-2010, tỷ trọng nông nghiệp chỉ giảm đi 0,3 điểm phần trăm, chậm hơn nhiều so với giai đoạn 1991-2000 (mỗi năm NN giảm 1,56 điểm phần trăm) và chậm hơn so với các nước. Hiện nay, tỷ trọng đóng góp của NN vào GDP còn chiếm khá cao (trên 20%). Trong khi tỷ trọng ngành NN giảm chậm thì tỷ trọng dịch vụ gần như không thay đổi, thậm chí còn có nguy cơ giảm trong suốt giai đoạn 2001-2010.

Kết luận: Hiện trạng trên cho thấy cơ cấu kinh tế của Việt Nam hiện nay phản ánh trình độ phát triển ở mức thấp (giai đoạn chuẩn bị cất cánh, với tỷ trọng NN trên 20%) và chỉ đạt bằng mức của Thái Lan những năm 1990. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua là mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào các ngành sản xuất, với sự chi phối còn khá mạnh của sản xuất NN.

 

3.2.4.2 Xét theo góc độ lan tỏa của tăng trưởng đến xã hội và phát triển con người

(2) Tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo

Có thể nói, tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo nghèo ở Việt Nam trong thập niên vừa qua.

Theo báo cáo của UNDP hàng năm, xếp hạng chỉ số nghèo tổng hợp (HPI) của Việt Nam đã có những thay đổi tích cực: năm 1999 Việt Nam xếp thứ 51 trong số 92 nước đang phát triển được xếp hạng về chỉ số HPI, năm 2010 xếp thứ 32/105 nước Kết quả giảm nghèo của Việt Nam đạt được ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Mặc dù những năm cuối của thời kỳ 2006-2010 tăng trưởng kinh tế có chậm lại nhưng việc giảm tỷ lệ hộ nghèo vẫn thiếp tục được cải thiện .Với kết quả trên, Việt Nam được cộng đồng quốc tế công nhận là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh trên thế giới và là một trong những nước đi đầu trong thực hiện mục tiêu giảm 50% số người nghèo vào năm 2015. Tuy nhiên, xét về tác động của tăng trưởng đến giảm nghèo, có những vấn đề

     Thứ nhất, tốc độ giảm nghèo có xu hưởng giảm xuống và ngày càng có biểu hiện chậm hơn so với tốc độ tăng. Điều này được giải thích một phần bởi sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng GDP giữa thời kỳ sau so với thời kỳ trước (là 7,5% thời kỳ 2001-2005 và 6,98% thời kỳ 2006-2010). Tuy vậy, nếu thời kỳ 2006-2010 tốc độ tăng trưởng cũng bằng với thời kỳ trước (7,5%) thì tỷ lệ hộ nghèo bình quân năm của thời kỳ này cũng chỉ đạt con số 1,99% (xấp xỉ 2%) mà thôi. Điều này cho thấy tỷ lệ giảm nghèo đang có xu hướng giảm đi. Điều này cảnh báo giảm nghèo sẽ khó khăn hơn, chủ yếu do bản chất nghèo đói đã thay đổi so với. Điều này cho thấy  mô hình tăng trưởng thực trạng đã giảm dần hiệu lực tác động đến giảm nghèo, kết quả của tăng trưởng lan tỏa đến giảm nghèo ngày một yếu đi.

     Thứ hai, tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các khu vực trong mỗi vùng, tỷ lệ nghèo ở các vùng khó khăn có xu hướng tăng lên.

Vùng nghèo, vùng khó khăn chưa có đủ điều kiện để tạo ra bước đột phá trong giảm nghèo và họ trở nên ngày càng nghèo hơn trong sự gia tăng mức sống chung của cả nước, nhất là sự gia tăng nhanh chóng về mức sống của các thành phố lớn trong thời gian từ năm1990 đến nay. Có sự chênh lệch lớn giữa các vùng về tỷ lệ hộ nghèo. Cụ thể, nếu tính theo chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005, đến cuối năm 2005 cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 20,2% số hộ trong toàn quốc; các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là vùng Tây Bắc (42,23%), Đông Bắc (31,53%), Bắc Trung Bộ (31,55%) và Tây Nguyên (28,54%); vùng có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9,17%). Trong khi theo kết quả điều tra nghèo năm 2009, một số địa phương như Bình Dương, thành phố Hồ CHí Minh đã xóa hết tỷ lệ nghèo, một số vùng tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn là một con số như: vùng Đông Nam Bộ còn 4,3%, Đồng bằng sông Hồng 9,6%, thì nhiều vùng trong cả nước vẫn còn tồn tại tỷ lệ nghèo khá cao: Tây Nguyên 23%, Đông Bắc 21,4%, Bắc Trung Bộ 25,8%, Tây Bắc 38,1%.

Thứ ba, rủi ro tái nghèo vẫn còn cao. Ba nhóm dân cư sau đây luôn xảy ra hiện tượng tái nghèo: Nhóm thứ nhất bao gồm những hộ nghèo mà thu nhập dựa vào sản xuất nông nghiệp thuần túy. Nhóm thứ hai là nhóm người negó ở những nơi khó tiếp cận nguồn lực để sản xuất cũng như tiếp cận các dịch vụ xã hội. Nhóm thứ ba bao gồm dân nghèo thành thị. Sự chênh lệch về thu nhập giữa các vùng chứng tỏ chính sách tăng trưởng thông qua tạo nhiều việc làm có giá trị gia tăng thấp tuy có tác động giảm nghèo, nhưng khó thu hẹp được khoảng cách thu nhập giữa vùng nghèo với vùng giàu.

(3) Tăng trưởng với sự gia tăng bất bình đẳng

Thứ nhất, cùng với quá trình theo đuổi các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng ngày càng gia tăng. 

Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thể hiện trên cả 3 khía cạnh đánh giá bất công bằng trong phân phối thu nhập mà các tổ chức quốc tế đang sử dụng:

(i)  Khoảng giãn cách thu nhập giữa hai đầu giầu và nghèo ngày càng xa

Khoảng dãn cách thu nhập đo bằng Hệ số chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất (20%) và nhóm hộ thu nhập thấp nhất (20%) ngày càng gia tăng

Thực tế cho thấy, nếu năm 1990, sự cách biệt về thu nhập của 20% số hộ giàu nhất và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là 4,1 lần, năm 2008 là 8,9. Hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất và nhóm hộ thu nhập thấp nhất ở khu vực thành thị cao hơn ở nông thôn (năm 2002: thành thị là là 8,0 lần, nông thôn 6 lần; năm 2004 là 8,1 và 6,4 lần; năm 2006 là 8,2 lần và 6,5 lần). Theo vùng lãnh thổ, chênh lệch cao nhất năm 2006 là ở Đông Nam Bộ (8,8 lần), thấp nhất là ở Bắc Trung Bộ (6,3 lần).

(ii) Tỷ trọng thu nhập của những người nghèo nhất (theo tiêu chí của WB là thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất) có xu hướng ngày càng thấp đi trong tổng  thu nhập dân cư

Số liệu thống kê từ các cuộc Điều tra mức sống hộ gia đình của Việt Nam (VHLSS) các năm cho thấy, tổng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất so với các nhóm còn lại giảm dần: năm 1995 là 21,1%, năm 1999 là 17,98%, năm 2002 là 17,4%, năm 2004 là 17,4%, năm 2006 là 17,37% và năm 2008 còn là 15,1%.  Điều này cho thấy mức bình đẳng tương đối về thu nhập có xu hướng xấu đi, chúng ta đã bị chuyển từ nhóm nước có mức độ công bằng xã hội cao sang nhóm nước có mức độ công bằng xã hội vừa.

(iii) Sự bất bình đẳng chung có xu hướng gia tăng rõ ràng

Đo lường bất bình đẳng theo hệ số GINI cho thấy xu hướng của hệ số này ở Việt Nam tăng lên, nhất là sau những năm 2000: năm 1995 là 0,357; năm 2008 là 0,4. Điều này chứng tỏ sự bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư vẫn chưa có chiều hướng được cải thiện.

     (iv) Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn về thu nhập, chi tiêu, nhà ở, điện nước, vệ sinh, đồ dùng lâu bền… còn rất lớn. Tỷ lệ nghèo ở nông thôn cao gấp đôi ở thành thị, số người nghèo ở nông thôn chiếm trên 90% tổng số hộ nghèo của cả nước.

Tóm lại: Bất bình đẳng thu nhập gia tăng cho thấy rằng thành quả của tăng trưởng đã không được phân bổ đồng đều giữa các tầng lớp dân cư. Thực tế này đặt ra câu hỏi: Có bao nhiêu phần trăm dân số Việt Nam có thu nhập ít nhất là ngang bằng với mức thu nhập bình quân đầu người? Nếu tỷ lệ này là cao thì việc vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp mới thực sự có ý nghĩa. Kết hợp với các số liệu về tỷ lệ nghèo ở trên ở các vùng trong cả nước, cho thấy tỷ lệ người sống dưới mức vượt ngưỡng nước nghèo còn khá lớn. Chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa cho mục tiêu  vượt ngưỡng nghèo đích thực.

Thứ hai, so với tiêu chuẩn quốc tế đặt ra thì mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập vẫn còn ở mức chấp nhận được.

mặc dù sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tăng lên ở Việt Nam, nhưng so với các chuẩn quốc tế, được quy định bởi WB thì sự phân hóa giầu nghèo của chúng ta vẫn còn năm ở ngưỡng bất công bằng chấp nhận được (ở mức bất công bằng vừa).

(4) Tăng trưởng với phát triển con người

Trình độ phát triển con người được xem xét qua chỉ số HDI và mục tiêu của tăng trưởng và phát triển kinh tế phải là cải thiện chỉ số này. Năm nay, trong báo cáo phát triển con người đã cải thiện đáng kể các tiêu chí đánh giá HDI, ngoài các chỉ số phản ánt thu nhập, tuổi thọ và giáo dục, còn đưa thêm vào 3 tiêu chí, đó là bất bình đẳng phân phối thu nhập, bình đẳng giới và nghèo khổ đa chiều. Vì vậy báo cáo này sẽ không thực hiện so sánh HDI qua các năm qua mà chỉ đi vào đánh giá thực trạng phát triển con người của Việt Nam qua giá trị HDI hiện nay. Liên quan đến các chỉ số bộ phận trong chỉ số phát triển con người, một số đánh giá sau đây đã được các tổ chức quốc tế khẳng định đối với Việt Nam:

(i) Về thu nhập: Trong thời gian qua Việt Nam đã có nhiều tiến bộ về tăng trưởng kinh tế và chỉ số thu nhập trong HDI cũng được cải thiện đáng kể. Chúng ta đã đứng thứ 8 trên thế giới trong danh sách các quốc gia đạt nhiều tiến bộ nhất trong cải thiện chỉ số thu nhập

 (ii) Về y tế và chăm sóc sức khỏe:  4 thập kỷ Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ đáng khích lệ, tuổi thọ bình quân tăng đáng kể. Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đã tăng từ 49 tuổi vào năm 1970 lên 75 tuổi vào 2010, đứng thứ 59/174 nước xếp loại, cao hơn tuổi thọ bình quân ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương (72,8).

(iii) Về giáo dục: Nếu như Việt Nam được đánh giá cao về tốc độ gia tăng thu nhập và tuổi thọ bình quân thì chỉ số liên quan đến giáo dục lại bị xem như là chậm có sự thay đổi.  Số năm đi học trung bình tăng 1,5 năm trong thời gian từ 1990 – 2010, nhưng từ năm 2000, tiến bộ trong lĩnh vực giáo dục đã chậm lại. Năm 2010, số năm đi học trung bình của Việt Nam mới chỉ đạt con số 5,5, thấp hơn phần lớn các nước trong khu vực, thấp hơn nhiều so với Thái lan (6,6), thấp hơn cả Campuchia (5,8), Indonesia (5,7). Trong 5 năm qua, số năm đi học dự kiến chỉ tăng rất ít từ 10,3 năm lên 10,4 năm. Học sinh Việt Nam dự kiến tiếp tục đi học ít hơn 3 năm so với học sinh ở Thái Lan và ít hơn 2 năm so với học sinh ở Malaysia. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế còn ít có quan hệ tác động tới giáo dục, đặc biệt ở những nước có mức HDI thấp và trung bình như Việt Nam.

Với kết quả đạt được theo các tiêu chí nói trên, trình độ phát triển con người của Việt Nam năm 2010 được đánh giá qua bảng sau đây:

Việt Nam đứng thứ 113/169 nước về trình độ phát triển con người, được xếp loại trung bình thấp, và thấp hơn phần lớn các nước trong khu vực Đông Nam Á.

– Thứ hạng về phát triển con người của Việt Nam không cao bị chi phối bởi yếu tố thu nhập là chính. Do xuất phát điểm thấp nên chúng ta mặc dù đã là 1 trong 10 nước đạt được thành tựu to lớn về tăng trưởng thu nhập nhưng vẫn chỉ có một mức thu nhập bình quân đầu người ở mức rất khiêm tốn, đứng thứ 120/169 trên thế giới, chúng ta vẫn nằm trong tốp những nước nghèo nhất của khu vực Đông Á. Vì thế điểm số về thu nhập vẫn làm giảm đáng kể giá trị trị số HDI của Việt Nam. Nếu không kể yếu tố thu nhập thì HDI ngoài thu nhập của chúng ta đạt 0,646 (trong khi HDI có tính đến thu nhập thì chỉ đạt 0,572).

– Với phép trừ thứ hạng xếp loại theo thu nhập bình quân đầu người cho thứ hàng HDI Việt Nam hiện nay nhận giá trị là + 7 (120-113), cho thấy chúng ta vẫn là quốc gia thực hiện sự lan tỏa tốt của tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người, đặc biệt là đến vấn đề y tế, chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới. Tuy vậy với mức chênh lệch về thứ hạng của hai tiêu chí này là (+7), cho thấy: (i) so với những năm trước, giá trị này bị giảm đi đáng kể: thời điểm năm 1990, chênh lệch thứ hạng theo giá trị của GDP/người và HDI là 30(147/117), thì năm 2006 là 27(132/105), đến năm 2010 chi còn 7(120/113);(ii) so với nhiều nước trong khu vực mà Việt Nam đang hướng mục tiêu phát triển theo mô hình của họ thì chúng ta bị thấp hơn khá nhiều, ví dụ như: Hàn Quốc(+16), Philipines (+10). Sử dụng phương pháp này cho thấy, tác đọng của tăng trưởng GDP vào phát triển con người ở Việt Nam đang có xu hướng giảm dần,nhất là tác động của tăng trưởng đến phát triển giáo dục, đến vấn đề xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội cũng như thực hiện sự phân bổ nguồn lực giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.

Kết luận: Đứng trên góc độ xã hội, có thể thấy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã hướng theo mô hình tăng trưởng vì con người. Tuy nhiên bản thân sự tiến bộ về tăng trưởng kinh tế chưa đủ lực để tạo nên những bước đột phá (tiến bộ vựơt bậc) về mặt xã hội cho con người. Mặt khác chính bản thân cách thức thực hiện mục tiêu tăng trưởng của chúng ta hiện nay cũng đã làm giảm dần hiệu ứng của mô hình tăng trưởng vì con người.

(5) Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái

Chạy theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh  trong suốt nhiều năm, chúng ta đã phải trả giá khá cao cho những mất mát về tài nguyên môi trường, cụ thể là: môi trường đang bị xuống cấp ở mức báo động, đặc biệt là sự gia tăng ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm do bụi và khí thải, rác thải độc hại ở đô thị và khu công nghiệp; chưa ngăn chặn được nạn khai thác bừa bãi rừng, cát lòng sông và một số tài nguyên khác. Cụ thể

Thứ nhất: Hậu quả của chính sách đô thị hoá nhanh nhưng thiếu kiểm soát chặt chẽ. Điều này dẫn đến một số hậu quả về môi trường:

– Tài nguyên đất cho phát triển đô thị và xây dựng các KĐT mới  bị khai thác quá mạnh, thu hẹp diện tích cây xanh, mặt nước, thay đổi cân bằng nhiệt ẩm, làm mất cân bằng sinh thái.

– Cùng với quá trình đô thị hóa là quá trình tăng khối lượng nước và rác thải. Hầu hết nước thải đô thị đều chưa qua hệ thống xử lý trước khi xả thải ra môi trường.

– Đô thị hóa nhanh dẫn đến quá tải đối với hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là hạ tầng giao thông cơ giới.

– Tốc độ tăng dân số, tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh, việc phát triển ồ ạt ngành du lịch ở các vùng ven biển đang ngày càng gây ô nhiễm môi trường biển. Các thành phố, các KCN, KKT ven biển, các khu du lịch đổ ra ngày một nhiều lượng nước thải không qua xử lý, rác thải, một phần chất thải rắn vào sông, biển, gây ô nhiễm môi trường nước, gây suy thoái hệ sinh thái biển và ven biển.

Thứ hai: Thiếu chính sách quy hoạch và kế hoạch phát triển các KCN nói riêng và phát triển công nghiệp nói chung

Theo đánh giá của các chuyên gia, Ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm các dòng sông do tác động của phát triển công nghiệp. Điều này thể hiện rõ ở miền Bắc và miền Nam. Ở khu vực phía Nam, hiện tượng ô nhiễm môi trường đã ở mức báo động đỏ.

Ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm các dòng sông do tác động của phát triển công nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện cũng đã ở mức báo động. Môi trường lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ, đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, mặc dù đã có những nỗ lực phân công xử lý ô nhiễm ba hệ thống sông này, nhưng đến nay vẫn chưa có một mô hình nào có tính khả thi cao. Các dòng sông bị ô nhiễm vẫn đang tiếp tục chảy và đang bị ô nhiễm trầm trọng hơn.

Mật độ tập trung cao của các KCN thuộc vùng đồng bằng sông Hồng cũng khiến cho ô nhiễm trở nên nặng nề hơn. Tác động của sản xuất công nghiệp môi trường không khí tại TP Hà Nội đã rất mạnh: Hà Nội đang là một trong hai thành phố ô nhiễm nhất cả nước về môi trường không khí. Tính trung bình trên toàn thành phố, nồng độ bụi gấp 1,5 đến 3 lần tiêu chuẩn cho phép. Thiệt hại do ô nhiễm không khí gây ra đối với Hà Nội ước tính khoảng 1 tỷ đồng/ngày, chưa tính đến thiệt hại đối với với nông nghiệp và cây xanh.

Thứ ba:  Thiếu cơ chế quản lý, chế tài  xử lý vi phạm và tổ chức thực hiện dự án chống ô nhiễm môi trường

Hiện nay ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm các dòng sông, ô nhiễm không khí… đang là vấn đề thực sự cấp bách, phải báo động đỏ đối với các khu vực kinh tế cả nước. Sau nhiều năm thực hiện chương trình giảm thiểu ô nhiễm môi trường , các chỉ tiêu về chất lượng không khí, nước gần như không thực hiện được. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân :

– Chúng ta vẫn thiếu một chính sách giải pháp đồng bộ, thiếu sự phối hợp liên vùng, giữa các tỉnh với nhau để xử lý ô nhiễm môi trường.

– Các dự án đầu tư xử lý ô nhiễm môi trường tại các KĐT lớn chưa tích cực triển khai thực hiện.

– Các tài liệu quy hoạch xử lý chất thải rắn, độc hại và nguồn nước tuy đã được phê duyệt chung nhưng chưa có phương án triển khai cụ thể lâu dài cho vùng KTTĐ và cho từng tỉnh.

– Chưa hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, chưa kịp thời sửa đổi và ban hành sớm các chế tài xử phạt vi phạm trong lĩnh vực môi trường phù hợp với khung pháp lý hiện hành; chưa sửa đổi, ban hành và triển khai thực hiện hiệu quả các công cụ kinh tế nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ nguồn thải với các hoạt động BVMT và nâng cao nhận thức BVMT, ý thức chấp hành pháp luật vì môi trường trong xã hội, cộng đồng, các tổ chức, cá nhân ở các địa phương vùng KTTĐ.

Thứ tư:  Chưa có chính sách hợp lý trong đầu tư khoa học công nghệ đối với xử lý và chống ô nhiễm. Cụ thể:  

(i)                Công tác phân loại CTR: Hầu hết các đô thị chưa được phân loại CTR tại nguồn.

(ii)             (ii) Xử lý CTR: Công nghệ xử lý chất thải rắn hiện còn rất thô sơ: chất thải sinh hoạt chủ yếu hiện nay là chôn lấp, phần lớn các bãi chôn lấp rác đều ở trong tình trạng không hợp vệ sinh.

(iii) Hoạt động tái chế, tái sử dụng CTR đã được thực hiện ở một số địa phương như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Huế, Nam Định… mới chiếm tỷ lệ 13-20%. Chủ yếu áp dụng công nghệ chế biến chất thải thành phân hữu cơ, tuy nhiên chất lượng và hiệu quả chưa cao.

Kết luận: Đi đôi với tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đang thực sự phải trả giá cho vấn đề ô nhiễm môi trường và đứng trước  nguy cơ cạn kiệt tài nguyên cũng như những đe dọa về mất cân bằng sinh thái. Với thực trạng tăng trường kinh tế chủ yếu dựa vào tài nguyên, với trình độ công nghệ kỹ thuật khai thác, chế biến phần lớn là công nghệ thấp. Kết hợp với các chính sách thiếu đồng bộ giữa tăng trưởng nhanh với quản lý và bảo vệ tài nguyên môi trường, mô hình tăng trưởng của Việt Nam hiện nay đang có xu hướng không thân thiện môi trường, có ảnh hướng ngày càng lớn đến tính chất bền vững trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

2.4  Đánh giá tổng quát mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010

2.4.1 Kết luận về mô hình tăng trưởng của Việt Nam hiện nay

Những phân tích theo từng góc độ của tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua đã cho thấy: Về mặt số lượng, chúng ta có thể tự hào về tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước đã đạt được trong thời gian qua. Với kết quả đó đời sống kinh tế của Việt Nam đã thực sự được khởi sắc, từ chỗ sản xuất chưa đủ tiêu dùng ở mức độ thấp trong nước, nhập siêu, vay nợ còn lớn đến chỗ sản xuất không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đã lên cao, mà còn có tích lũy nội địa khá cao; đời sống của người dân được cải thiện khá nhanh và  Liên Hiệp Quốc đã công nhận Việt Nam đã hoàn thành các chỉ tiêu về xóa đói giảm nghèo trong chương trình thiên niên kỷ do tổ chức này đặt ra. Tuy vậy, những dấu hiệu nêu trên còn chưa mạnh, chưa đồng bộ, chưa rõ nét, một số yếu tố lại trở nên “quá nóng”, “quá đà”, nên chưa làm thay đổi được mô hình tăng trưởng kinh tế hiện tại vốn chứa đựng yếu tố chất lượng thấp ở nước ta.

Như vậy, có thể kết luận: Mô hình tăng trưởng Việt Nam (từ 2001- đến nay) là mô hình tăng trưởng chất lượng thấp và kém hiệu quả, cụ thể: (1) mang đặc trưng của mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, dựa vào sự gia tăng vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư nhà nước. (2) Tính chất sản xuất chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên sẵn có hoặc nguồn lao động rẻ, mang đậm nét kinh tế gia công và dựa vào các ngành mang tính truyền thống với giá trị kinh tế không cao, năng lực cạnh tranh thấp, kém hiệu quả và thiếu bền vững (xét trong chuỗi giá trị toàn cầu). (3) Tăng trưởng kinh tế mang mầu sắc hội nhập khá rõ ràng, tuy nhiên có nhiều dấu hiệu dễ bị tổn thương và các chính sách chưa theo kịp với xu hướng mở cửa. (4) Xét theo góc độ hiệu ứng lan tỏa, mô hình tăng trưởng của Việt Nam là vì con người nhưng đang có xu hương bị yếu đi, đặc biệt là khía cạnh thiếu thân thiện môi trường và sự gia tăng của phân hóa xã hội.

Có năm điểm nhấn của mô hình tăng trưởng này:

(i) Tăng trưởng theo chiều rộng là chủ yếu, tính hợp lý trong sử dụng các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng  chưa cao.

Yếu tố lao động chưa được khai thác triệt để vào tăng trưởng, trong khi số lượng lao động lại có sự gia tăng nhanh chóng, điều đó đã ảnh hưởng không tốt đến năng suất lao động chung và gây hiệu ứng ngược chiều cho sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế. Mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư vốn, trong khi tỷ lệ tiết kiệm nội địa (đặc biệt là tiết kiệm của khu vực công) đang giảm nhanh, do đó mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn từ bên ngoài như FDI, ODA, kiều hối ngày càng cao. Chính sách tăng trưởng tập trung vào phát triển theo chiều rộng thay vì phát triển theo chiều sâu, tập trung vào số lượng thay vì vào chất lượng, do đó có thể tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh, nhưng về lâu dài là không bền vững, và không giúp nâng cao năng suất và hiệu quả.

(ii) Tăng trưởng nhờ dốc sức vào đầu tư, nhất là chịu sự chi phối của đầu tư nhà nước và nỗ lực kiềm chế giá cả bằng các biện pháp kể cả hành chính, không chú ý đến hiệu quả đầu tư.

 

Việt Nam đã đạt được con số tích lũy trong GDP cao vào loại nhất trên thế giới (từ 40% GDP trở lên trong vòng 10 năm qua). Bản thân vốn đầu tư lại được sử dụng thiếu cân đối, đầu tư quá mức vào hình thành vốn vật chất, chậm và thiếu đầu tư vào vốn con người và tíên bộ công nghệ, đầu tư nhà nước có xu hướng tăng trong khi hiệu quả lại thấp do được bảo lãnh bằng các chính sách của chính phủ. Tất cả đã làm cho: một mặt,  nền kinh tế ngày càng “nóng lên” và đứng trên khía cạnh vĩ mô, nguy cơ bùng nổ lạm phát đang là mối đe dọa gần kề; mặt khác, hiệu quả đầu tư có xu hướng thấp dần, trong 3 năm trở lại đây, chúng ta đã phải mất tới 6  đơn vị vốn để tạo ra 1 đơn vị tăng trưởngTrong quá trình đầu tư và tăng trưởng, khu vực doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chi phối, trong khi ngày càng có nhiều quan ngại về hiệu quả hoạt động của khu vực này. Khu vực FDI giữ vai trò động lực trong lĩnh vực xuất khẩu, nhưng ngoài ra, chưa thấy rõ vai trò của khu vực này trong việc nâng cao năng suất và kích thích đổi mới sáng tạo của toàn nền kinh tế. Khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng trưởng nhanh nhưng năng lực của khu vực này trong nền kinh tế còn hạn chế.

(iii) Tăng trưởng dựa vào khai thác quá mức nguồn vốn tài nguyên hoặc gia công chế biến, mang tính chất chạy đua ngắn hạn với hiệu quả năng lực cạnh tranh tăng trưởng có biểu hiện giảm sút.

Trong thời gian qua, quy mô và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế chủ yếu dựa vào sự gia tăng vượt trội của các ngành sản xuất cũng như xuất khẩu sản phẩm dựa trên cơ sở khai thác nguồn tài nguyên sẵn có của đất nước, các sản phẩm thô, các sản phẩm phẩm mang tính chất gia công dựa vào nguồn lao động vốn có giá trị rất rẻ mạt, năng suất lao động xã hội còn rất thấp, trình độ khoa học, công nghệ yếu kém, chi phí sản xuất trung gian còn cao và có chiều hướng gia tăng trong  nhiều năm trở lại đây. Quá trình tăng trưởng được dẫn dắt bởi quá trình chuyển dịch theo chiều ngang từ nông nghiệp sang chế tác thâm dụng vốn và dịch vụ, thay vì dựa vào nâng cao năng suất trong nội bộ ngành. Năng suất của khu vực chế tác ở mức thấp, không những làm cản trở tốc độ tăng trưởng của khu vực này mà còn hạn chế tác động lan toả để nâng cao năng suất của toàn bộ nền kinh tế. Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng và những thành tích trong hoạt động xuất khẩu, giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế vẫn ở mức thấp, thậm chí cả trong khu vực xuất khẩu. Lao động giá rẻ là một lợi thế giúp tăng trưởng xuất khẩu, trong khi đa số máy móc và nguyên liệu thô vẫn phải nhập khẩu. Các công ty FDI mang vốn từ nước ngoài vào kết hợp với lao động giá rẻ để sản xuất phục vụ chuỗi giá trị của họ, nhưng lại có rất ít liên kết với khu vực kinh tế trong nước. Do không có sự liên kết cả ở khâu đầu vào và đầu ra với khu vực FDI, các công ty trong nước khó có thể tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

(iv) Tăng trưởng mang mầu sắc hội nhập rõ ràng nhưng có nhiều dấu hiệu dễ bị tổn thương và các chính sách tăng trưởng tỏ ra không tương thích.

Với việc gia nhập WTO và ký kết các thoả thuận thương mại song phương và đa phương, Việt Nam đã hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới và thu được những lợi ích đáng kể từ quá trình này. Tuy nhiên, những dấu hiệu bất ổn và dễ tổn thương trước các cú sốc và biến động bên ngoài đang không ngừng gia tăng đòi hỏi Việt Nam phải có một cách tiếp cận chủ động và dài hạn hơn để không những đối phó mà còn có thể dự báo và kiểm soát được các yếu tố bên ngoài một cách hiệu quả. Trong khi định hướng phát triển kinh tế hội nhập, nhưng các chính sách kinh tế lại có nhiều dấu hiệu chưa tương thích

 (iv) Mục tiêu tăng trưởng vì con người đang có biểu hiện không tích cực.

Phát triển con người không có biểu hiện gia tăng tương ứng với quá trình tăng trưởng. Mặc dù Việt Nam vốn dĩ là một quốc gia luôn có những thành tựu đáng được ca ngợi về phát triển con người từ trước thời kỳ đổi mới.Sự lan tỏa của tăng trưởng đến các vùng sâu, vùng xa, đến các đối tượng dễ bị tổn thuwong chưa mạnh, sự phân hóa có xu hướng tăng lên rõ rệt, những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực ngày mộtgia tăng làm cho xếp loại về “mức độ trong sạch quốc gia” có xu hướng tiêu cực đi. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt vẫn còn bức xúc; tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; ùn tắc và tai nạn giao thông còn nghiêm trọng; chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề còn yếu kém và chậm được cải thiện; các bệnh viện bị quá tải, chất lượng dịch vụ y tế còn thấp. Một điều rõ ràng đang song hành với quá trình tăng trưởng là sự báo động của ô nhiễm môi trường ngày càng mạnh hơn, nguy cơ mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên đang xuất hiện ngày càng rõ ràng bởi sự phát triển của các loại hình sản xuất không thân thiện môi trường.

2.4.2 Đánh giá hiệu ứng của mô hình tăng trưởng hiện tại

2.4.2.1  Những hiệu ứng tích cực

Theo mô hình tăng trưởng trên, trong mười năm qua, Việt Nam đã đã đạt được những thành tựu  rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế:

(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7,3%/năm, thuộc nhóm  nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.200 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, thâm hụt ngân sách và nợ quốc gia được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện tốt hơn. Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần.

(2) Kết quả của quá trình tăng trưởng đã giúp sức cho công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt nhiều thành tựu nổi bật, được quốc tế đánh giá cao. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm .Trẻ em được quan tâm bảo vệ, chăm sóc; tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33,8% xuống còn dưới 18%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 67 lên 75 tuổi. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng tăng lên, đạt 0,733 (theo tiêu chí cũ) và 5,75 (theo cách tính mới), thuộc nhóm nước trung bình cao trên thế giới. Mức hưởng thụ văn hoá, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Cùng với những kết quả to lớn trong việc xã hội hoá phát triển các lĩnh vực xã hội, ngân sách nhà nước chi cho các lĩnh vực này không ngừng tăng lên; bảo hiểm y tế được mở rộng từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 2010. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng cao. Năm 2008, nước ta đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015.

(3) Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có mặt được cải thiện. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng, xã hội cởi mở và đồng thuận hơn. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Chính trị – xã hội ổn định. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi; thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo ra những tiền đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

2.4.2.2 Những hệ lụy không tích cực:

(1)  Quốc gia tăng trưởng cao hơn nhưng vẫn tụt hậu, thậm chí còn tụt hậu xa hơn.

Năm 2010 (dự kiến tăng trưởng 6,7%), GDP của Việt Nam so với năm 1990 cao gấp trên 2 lần (bình quân thời kỳ 1991- 2010 tăng 7,4%/năm). Đó là những tốc độ tăng khá cao. GDP bình quân đầu người của Việt Nam mới bằng 42,8%, con số tương ứng của khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 7/11 nước; bằng 26% con số tương ứng của châu Á và đứng thứ 36/50 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh; bằng 11,7% con số tương ứng của thế giới và đứng thứ 138/182 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh. Nếu họ “đứng yên” thì cũng phải nhiều năm sau Việt Nam mới bằng mức hiện nay của họ. Nhưng đó chỉ là giả thiết, thực tế họ vẫn tiến, thậm chí có nước, có năm còn tiến nhanh hơn.

Từ các con số trên, có thể rút ra hai nhận xét đáng lưu ý: Một, thứ bậc về GDP bình quân đầu người của Việt Nam vẫn nằm ở nửa dưới trong các nước ở khu vực Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới. Hai, do giá trị của 1% tăng lên của GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp như trên, nên tốc độ tăng chỉ tiêu này của Việt Nam phải cao gấp đôi tốc độ tăng của khu vực Đông Nam Á, cao gấp trên 4 lần tốc độ tăng của châu Á và cao gấp 9 lần tốc độ tăng trung bình của thế giới thì mới không bị tụt hậu xa hơn (chênh lệch tuyệt đối giảm).

(2) Hiệu quả tăng trưởng thấp và khả năng không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, mô hình tăng trưởng hiện tại đã làm cho thành tựu tăng trưởng về mặt số lượng đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế; lãng phí, thất thoát còn nhiều; hiệu quả đầu tư thấp. Tiêu hao nguyên liệu, năng lượng còn rất lớn. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên chưa thật hợp lý và tiết kiệm. Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, bội chi ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại còn lớn, lạm phát còn cao.

Với mô hình tăng trưởng hiện nay, các nhà kinh tế đã dự báo khả năng không tích cực cho những con số tăng trưởng tương lai của Việt Nam. Dựa theo cách phân tích lý thuyết về động thái thay đổi về vị trí của mặt số và chất lượng tăng trưởng có thể thấy mối quan hệ của hai mặt này cũng có những thay đổi theo từng giai đoạn. (i) Giai đoạn đầu: do quan tâm đến mặt lượng của tăng trưởng nhiều hơn, trong nhiều trường hợp phải bỏ qua yêu cầu của chất lượng tăng trưởng. Mặt số lượng và chất lượng tăng trưởng gần như là 2 yếu tố mang tính đánh đổi nhau. Nếu quan tâm nhiều đến khía cạnh cái giá phải trả cho sự tăng trưởng và tác động lan toả tích cực nó đến các đối tượng chịu ảnh hưởng, thì nhiều trường hợp mục tiêu đạt được một tốc độ tăng trưởng nào đó lại không thực hiện được. (ii) Giai đoạn sau (trong dài hạn): hai yếu tố này lại là hỗ trợ nhau, thúc đẩy nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng hoàn thiện.  Chính việc quan tâm đến các tiêu chí về chất lượng tăng trưởng lại là cơ hội để đạt được mục tiêu về số lượng tăng trưởng đặt ra. Ngược lại, về phía mình, mặt lượng của tăng trưởng lại tạo ra những hỗ trợ về vật chất cho việc hướng tới chất lượng tăng trưởng tốt hơn. Vì thế nếu chúng ta tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng kém chất lượng như hiện nay, thì khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng hiện nay có thể không thực hiện đượ trong tương lai.

Những xu hướng giảm dần về tốc độ tăng trưởng và những biểu hiện không hợp trong mô hình tăng trưởng là những luận chứng cho dự báo về sự giảm sút rất nhanh về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời sau năm 2010, và nếu những dự báo này trở thành sự thật thì đó là sự cảnh báo về sự không hoàn thành các mục tiêu trong chiến lược công nghiệp hóa đất  nước đến năm 2020

 (3) Mức sống, mức thu nhập thực của dân cư có xu hướng giảm đi cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế.

Kết quả của tăng trưởng GDP đã góp phần làm gia tăng thu nhập bình quân đầu người khá nhanh. Tuy vậy, nếu xét gia tăng thực về mức thu nhập bình quân đầu người, tức là lấy tốc độ tăng thu phận bình quân đầu người trừ đi tỷ lệ lam phát, kết quả cho thấy, mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người có xu hướng tăng chậm dần và những năm cuối có xu hướng giảm đi.

Thêm vào đó, tăng trưởng bình quân tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong thời kỳ 2006-2010 là 13,3%; trong khi tăng trưởng GDP bình quân tương ứng chỉ là 7,01%. Với tăng trưởng dựa trên số lượng như giai đoạn vừa qua, sức ép lạm phát lên nền kinh tế là khó tránh khỏi. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2011, nền kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi nên sản xuất sẽ tăng lên; giá nguyên nhiên vật liệu cũng tăng. Trong khi Việt Nam là nước phải nhập khẩu tới trên 80% nguyên nhiên vật liệu để sản xuất ra hàng hóa, việc tăng giá nguyên nhiên vật liệu trên thế giới chắc chắn sẽ tác động mạnh mẽ đến việc tăng giá tại Việt Nam. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta càng dốc sức vào tăng trường kinh tế theo mô hình hiện trạng thì mức sống thực của người dân cũng chưa khẳng định được có lên được hay không, và xét theo xu hướng trên thì có nguy cơ càng tăng trưởng, mức sống thực cảu người dân lại có xu hướng giảm đi

(4) Nguy cơ rơi vào bẫy các nước có mức thu nhập trung bình

Kết quả phân tích ở phần trên cho thấy, tăng trưởng của nền kinh tế đang ngày càng phụ thuộc vào tăng vốn đầu tư, mà thiếu lực đẩy từ nhân tố lao động và TFP, những nội lực tạo nên sức cạnh tranh của nhiều nước phát triển và đang phát triển khác..

2.4.3 Nguyên nhân của việc duy trì mô hình tăng trưởng chất lượng thấp và kém hiệu quả

 (i)  Quan điểm chạy đua theo mục tiêu tăng trưởng nhanh và căn bệnh thành tích trong kinh tế. 

Trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế, yêu cầu tăng trưởng nhanh đối với nền kinh tế nước ta là mang tính sống còn, chúng ta không thể thoát khỏi tình trạng tụt hậu xa hơn mà hiện nay đang thực sự lâm vào nếu không đẩy tốc độ tăng trưởng nhanh lên. Với tiềm lực tài chính có hạn, năng lực bộ máy chưa đủ cao, ngay tức thời nhà nước khó có thể  đồng thời  giải quyết tốt như mong muốn cả hai việc, vừa tập trung  để tạo ra và củng cố các cơ sở nền tảng của tăng trưởng, lại vừa đáp ứng đòi hỏi tăng trưởng cao. Trong trường hợp này, chúng ta thay vì phải chọn phương án hướng tới mục tiêu tăng trưởng trong dài hạn và  hiệu qủa ngày cang cao tức là củng cố các cơ sở nền tảng của tăng trưởng thì lại đi vào lựa chọn phương án cho tăng trưởng ngắn hạn. Nhiều nhà kinh tế đã quan niệm rằng chỉ cần đầu tư, nhất là đầu tư vào vốn vật chất ở mức cao sẽ đạt tăng trưởng như mong đợi. Theo phương án này, chính phủ đã phải căng mình lên với những thách thức ngắn hạn và luôn phải chạy theo nó để đối phó, nhất là tìm kiếm nguồn lực tài chính, sử dụng các chính sách mang tính chất chữa cháy nhắm khuyến khích đầu tư như trợ cấp vốn, ưu đãi lãi suất, bảo lãnh cho vay, bảo hộ sản xuất trong nước, miễn giảm thuế tràn lan, hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước.

Ngoài vấn đề chạy theo tăng trưởng nhanh, hiện nay, xu hướng tăng đầu tư để đạt thành tích tăng trưởng cao đã trở thành một căn bệnh nghiêm trọng trong toàn nền kinh tế.

(ii) Những hạn chế về nguồn lực tăng trưởng theo chiều sâu

Các yếu tố vốn vật chất, vốn con người, và tiến bộ công nghệ là các yếu tố trực tiếp tham gia vào quá trình tăng trưởng. Đứng trên góc độ này, Việt Nam hiện dư thừa lao động giản đơn và công nghệ thủ công lạc hậu. Ngược lại, các yếu tố nguồn lực tạo sự đồng thuận cho tăng trưởng theo chiều sâu như vốn tài chính, vốn nhân lực, và công nghệ hiện đại thì lại rất thiếu và chính nó là rào cản cho sự phấn đấu nâng cao chất lượng tăng trưởng. Cụ thể là:

Thứ nhất, vốn tài chính hiện đang thiếu xét trên cả 3 nguồn đầu tư. Nguồn vốn nhà nước dựa vào các khoản thu từ ngân sách chưa được cải thiện do ngân sách nhà nước của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng bội chi, các doanh nghiệp nhà nược làm ăn chưa thực sự có hiệu quả nên phần dành cho tái đầu tư chưa nhiều. Nguồn vốn của dân cư và doanh nghiệp ngoài nhà nước còn chiếm tỷ trọng thấp, chủ trương xã hội hóa triển khai thực hiện còn rất chậm, vốn nằm trong dân chủ yếu vẫn không dùng để đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mặc dù có dấu hiệu khởi sắc những vẫn chưa đạt được mức năm 1996, 1997 về tỷ trọng chiếm trong tổng vốn đầu tư xã hội.  Năm 1997, FDI chiếm 28% tổng đầu tư xã hội trong khi năm giai đoạn 2001-2005 chỉ còn 15 – 16% và  giai đoạn 2006-2010 là 21%.

Thứ hai, vốn con người còn nhiều yếu tố bất cập: một là, hàng năm số người bước vào tuổi lao động đòi hỏi giải quyết việc làm vẫn tăng khoảng 1 triệu người, trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp nếu quy đổi cả thất nghiệp trá hình vẫn ở mức 2 con số, đây là một áp lực lớn cho nền kinh tế trong việc thực thi chiến lược phát triển và áp dụng công nghệ hiện đại; hai là, lao động thuộc ngành nông – lâm – ngư nghiệp hiện vẫn chiếm tỷ trọng lớn  Một rào cản đáng nói nhất về vốn con người là sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động nếu xét theo góc độ chất lượng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo hiện còn rất thấp, mới chỉ đạt 32% (số liệu năm 2010), thậm chí không đạt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra (kế hoạch năm 2005 là 30% và 2010 là 40), lực lượng cán bộ khoa học đầu đàn, đội ngũ doanh nhân giỏi còn rất thiếu là một khó khăn để phát triển các ngành đủ sức cạnh tranh trong hội nhập. Ngay cả đối với lao động đã qua đào tạo thì cơ cấu cũng chưa hợp lý, nếu xét cơ cấu hợp lý theo cấp đào tạo: cử nhân/ trung cấp/ công nhân, chuẩn mực của thế giới là 1/4/10 trong khi đó ở nước ta hiện nay là 1/0,98/3,02, chúng ta đang thiếu hẳn một đội ngũ thợ lành nghề để thực hiện vận hành một nền kinh tế hiện đại.

Thứ ba, trình độ khoa học công nghệ hết sức thô sơ và lạc hậu

Tạo một blog miễn phí với WordPress.com.